Giáo sư Tracy Terrell, một giáo sư ngôn ngữ học người tây ban nha ở California vạch ra ba nguyên tắc cơ bản của cách tiếp cận tiếng anh tự nhiên:
1. Trọng tâm giảng dạy là về giao tiếp chứ không phải hình thức của nó.
2. Sự giao tiếp bằng lới nói đến chậm và không bao giờ bị ép buộc.
3. Lời nói đầu tiên đi qua các giai đoạn tự nhiên (có hoặc không trả lời, trả lời một từ, danh sách từ, cụm từ ngắn, câu hoàn chỉnh).
Những nguyên tắc này mang lại kết quả mà trong các lớp học nơi mà các giáo viên luôn chú trong đến chủ đề kiến thức đầu vào thú vị, dễ hiểu và không tạo áp lực học tập cho học sinh. Các bài học cách tiếp cận tự nhiên tập chung vào việc hiểu các thông điệp bằng ngôn ngữ nước ngoài, và đặt ít hoặc không có tầm quan trọng nào đối với việc sửa lỗi, tập luyện và học tập có ý thức về các quy tắc ngữ pháp. Phương pháp cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học và mở rộng vốn từ vựng theo phương pháp TPR (phương pháp dựa trên sự phối hợp giữa ngôn ngữ và chuyển động cơ thể) ở giai đoạn đầu. Ngoài ra, giáo viên sử dụng Natural Approach (cách tiếp cận tự nhiên) nhằm mục đích tạo ra các tình huống trong lớp học vốn là động lực thúc đẩy sinh viên tương tác.
GS. Tracy Terrell thấy rằng học sinh trải qua ba giai đoạn trong việc đạt được bài phát biểu của mình: hiểu, nói sớm và phát biểu. Trong giai đoạn đầu GS. Tracy Terrell tập chung vào kiến thức từ vựng của học sinh. Mục đích của ông là làm cho từ vựng được ghi nhớ trong ký ức lâu dài của sinh viên, một qua trình ông gọi là binding (tạm dịch: bắt buộc, ràng buộc). Ông nhận ra kỹ thuật như binding (ràng buộc) hưu dụng hơn các kỹ thuật khác; ví dụ như việc sử dụng cử chỉ hành động , được trích từ phương pháp TPR (Total Physical Respond – phản xạ vật lý tổng thể), được xem là giúp người học ghi nhớ từ vựng tốt hơn với việc sử dụng bản dịch.
Theo GS. Tracy Terrell, sự phát biểu bằng lời nói của người học sẽ chỉ xuất hiện sau khi đủ ngôn ngữ và được ràng buộc thông qua đầu vào giao tiếp. Khi điều này xảy ra, người học bước vào giai đoạn phát biểu ban đầu. trong giai đoạn này học sinh trả lời các câu hỏi đơn giản, sử dụng các từ đơn và cụm từ thiết lập, và điền vào biểu đồ đơn giản bằng tiếng nước ngoài. Trong giai đoạn phát biểu sau đó, học sinh sẽ tham gia vào các hoạt động đòi hỏi ngôn ngữ nâng cao hơn, chẳng hạn như đóng vai và các hoạt động giải quyết vấn đề.
Giáo sư Stephens D. Krashen, người xây dựng và hoàn thiện hệ thống phương pháp tiếp cận tự nhiên vạch ra năm giả thuyết trong mô hình của mình:
1. Giả thuyết Acquisitiong –learning (tiềm thức – học tập): Điều này cho thấy sự tách biệt nghiêm ngặt giữa việc học ngôn ngữ có ý thức và việc thu nhận ngôn ngữ tiềm thức, và chỉ học ngôn ngữ qua tiềm thức mới có thể dẫn đến việc sử dụng ngô ngữ thành thạo.
2. Giả thuyết Monitor (giám sát): Điều này nói rằng kiến thức về ngôn ngữ được học có ý thức chỉ có thể được sử dụng giám sát đầu ra chứ không phải để tạo ra ngôn ngữ mới. Giám sát đầu ra đòi hỏi người học tập trung vào quy tắc và có thời gian để áp dụng nó. Nói đơn giản hơn, việc học ngôn ngữ theo cách có ý thức sẽ giúp người học hoàn thành tốt các bài thi hay kiểm tra đầu vào, nhưng không thể giúp họ sử dụng ngôn ngữ đã học vào thực tiễn.
3. Giả thuyết Input (đầu vào): Điều này nói rằng ngôn ngữ được thu thập bằng cách tiếp xúc với đầu vào hiểu được ở mức độ cao hơn một chút so với những gì mà người học có thể đã hiểu. Krashen đặt tên kiểu này là “i+1”.
4. Giả thuyết về Natural order (trật tự tự nhiên): Điều này nói rằng người học có thể nhận biết được các tính năng ngữ pháp của một ngôn ngữ theo một trật tự cố định, và điều này không ảnh hướng bởi hướng dẫn hay từ sự học tập.
5. Giả thuyết Affective filter (bộ lọc tình cảm): Điều này nói rằng người học phải được thư giãn và cởi mở để học tập để có thể sử dụng được ngôn ngữ. Những người đang lo lắng hoạc đau khổ sẽ tiếp thu ngôn ngữ khó hơn, trong khi đó những học sinh thoải mái hơn sẽ tiếp nhận ngôn ngữ dễ dàng mà không cần phải nỗ lực nhiều.
Từ những nghiên cứu và các giả thuyết mà hai vị giáo sư đưa ra nó vẫn nguyên giá trị cho đến ngày nay khi áp dụng dạy ngôn ngữ.
Từ những thông tin trê ta có thể rút ra một số nội dụng chính vận dụng cho học ngôn ngữ như sau:
- Học theo cách thuận theo tự nhiên
- Ưu tiên học bằng tiềm thức để có thể sử dụng ngôn ngữ thành thạo
- Học trên tình thần thoải mái giúp cho Input dễ dàng
- Với yếu tố nêu trên thì khảng định việc học ngôn ngữ ở trẻ em là một lợi thế lớn, do vậy cần cho trẻ tiếp cận với ngôn ngữ càng sớm càng tốt.
Tạo môi trường tiếng anh là rất quan trọng để học dễ dàng: âm thanh, ngữ cảnh, hoạt động.
Biên tập: Edu Việt